Giăng 4: " Lấy Tâm thần và Lẽ thật mà thợ phượng Cha "

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện *Báp Têm* zoom

" Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài th́ phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy." Giăng 4: 24

Giăng 4: " Lấy Tâm thần và Lẽ thật mà thợ phượng Cha "

 

Đọc Giăng 4: 16-30

 

Câu hỏi:

 

1/ Do đâu mà Bà Sa ma ri cho rằng Chúa Giê su là Đấng Tiên tri?

2/ Chúa Giê su có tế nhị khi đề cập đến đời sống bà sa ma ri không? Bằng cách nào?

3/ Chúa hướng về đời sống riêng tư đó của bà để làm gì?

 

4/ Tại sao bà Sa ma ri lại hỏi về sự thờ phượng? Bạn có nghĩ bà được lên núi đó thờ phượng không?

5/ Chúa Giê su giải thích thế nào? Xin giải nghĩa điều Chúa Giê su dạy

6/ Cuối cùng Chúa Giê su tỏ mình là ai cho bà Sa ma ri? Tại sao Chúa Giê su lại quan tâm tới dân Sa ma ri?

 


                     "Lấy Tâm thần và Lẽ thật mà thợ phượng Cha "

 

*** " Tôi nhìn thấy Chúa là một Đấng Tiên tri:" câu 16-19

 

" Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây. Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm; vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy. Người đàn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri. "

 

   Nhắc lại đoạn trước, Chúa Giê su nói về nước Hằng sống mà Ngài sẽ ban cho, bà Samari không hiểu được, chúng ta tự hỏi:

        "vì sao Chúa Giê su lại nói về một đề tài không tương xứng với trình độ của bà?"


   Trước hết, Chúa Giê su tiết lộ cho bà biết Ngài là ai, và món quà Ngài sẽ đem đến cho bà là gì.

                   Đó là lời tuyên bố của một Đấng có thẩm quyền.


     Phân đoạn nầy mới là lúc Chúa dùng phương cách của Ngài để thu phục bà.

 

      Chúa Giê su có nhiều cánh cửa mở ra cho người nghe, đối với giáo sư Ni cô đem, Ngài dùng lời trong cựu ước, để chỉ ra Đấng Christ là hình bóng của Đấng Mê si, làm cho Ni cô đem khuất phục.

    Khi đến với người thu thuế mà mọi người xa lánh, Chúa ngồi ăn chung với ông, xoá bỏ ranh giới về thành kiến, Chúa chinh phục trái tim của ông. Còn đối với bà Samari, Chúa đánh động lương tâm của bà.


   Đòi gặp chồng bà là một điều rất bình thường nằm trong văn hoá thời bấy giờ, một người đàn ông sẽ không nói chuyện dông dài với một người phụ nữ nếu không cần thiết. Chúa dùng điều đó để khơi lên một manh mối rất tế nhị, là để bà Samari tự nói ra lối sống hiện tại của mình. Có liên hệ với năm người đàn ông thời đó, bà bị cộng đồng mình đang sống khinh bỉ.

   Chúa làm cho một việc khó nói thành nhẹ nhàng, Chúa muốn người ta trước nhất nhận thấy tình trạng hiện tại của mình, để tìm đến một sự cứu giúp, tin cậy người cứu giúp hiểu mình, không lên án mình.

 

" Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30 Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng." Ma-thi-ơ 11: 28-30

 

  Chúa Giê su nhân từ, trong mọi phương diện, Ngài đều tỏ ra nhân từ và rất khiêm nhường. Thời Ân Điển là thời chúng ta đang sống, Chúng ta phải nhìn lên Chúa Giê su để được cứu. Thời gian nầy sẽ chấm dứt khi tiếng kèn thổi, thông báo Chúa Giê su trở lại. Lúc đó Chúa Giê su sẽ đến với hình ảnh của Đấng đoán xét.

         Lời của Ngài sẽ nghịch cùng những kẻ chẳng tin, không đi theo lẽ thật và làm sai lẽ thật.

  Với thần tính, Chúa Giê su tỏ cho bà Samari biết những chi tiết cuộc đời bà, khiến bà thốt lên: " Chúa là một đấng Tiên tri !"


               Chúa Giê su nói tiên tri, nhưng Ngài không phải Đấng Tiên tri - Chúa là Đấng Mê si

 

*** Sự thờ phượng phải lẽ: Câu 20-26

 

" Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem. Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy. Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó."

 

   Tại sao bà Samari đổi qua câu hỏi về sự thờ phượng ở đâu?

  Có người cho rằng bà muốn dẫn câu chuyện sang hướng khác, nhưng có cần như vậy không, trong khi bà biết Chúa đã biết hết.


   Câu hỏi nầy luôn có trong lòng người Samari, là một sự ái náy về thuộc linh, giữa họ và người Giu đa ai đúng, ai sai? Chúng ta đã đọc ở phần trước, người Samari chỉ chấp nhận những gì của Môi se ,và ngừng tại đó, không đi xa hơn nữa. Họ chỉ chấp nhận năm sách ngũ kinh trong Kinh Thánh.

  Nơi thờ phượng thì phải là núi Ghê ra xim, vì họ cho đó là nơi Môi se đã lập bàn thờ và được chúc phước. Họ cũng tự mình pha trộn các tôn giáo khác, chứ không thờ phượng mỗi Đức ChúaTrời.


  Bà Samari với tai tiếng không tốt, chắc không bao giờ được phép đặt chân đến nơi thờ phượng ở trên núi đó, nên thay vì bà nói chúng tôi, thì phải nói tổ phụ chúng tôi đã thờ phượng trên núi. Bà nhận thấy nên hỏi câu hỏi nầy với Tiên tri trước mặt mình là điều nên làm.

Chúa Giê su trả lời bà cách thẳng thắng:


" Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi,"


 Có hai điểm mà Chúa bác bỏ điều sai trật của người Samari: Thứ nhất họ thờ lạy sự mà họ không biết - Thứ hai: Họ phải chấp nhận sự cứu rỗi từ Giu đa mà đến.


   Chữ " sự" ở đây dịch từ chữ " what " bao gồm luôn không biết thờ ai và thờ như thế nào.

   Chúa Giê su cũng tỏ cho bà Samari biết Đức Chúa Trời là Cha chung của người Giu đa lẫn người Samari, nếu ai muốn thờ lạy Ngài thì địa điểm hay đền thờ không quan trọng, nhưng phải thể hiện qua tâm thần và đi theo lẽ thật.

   Tâm thần dịch từ chữ " Spirit " là phần sâu thẳm trong linh hồn, tương giao với Đức Chúa Trời. Sự tương giao nầy làm một người được gần gủi Chúa, và nhận được sự hướng dẫn hay cáo trách từ nơi Ngài. Chúng ta sẽ được chính Đa vít, một nhà văn đại tài diễn tả phần tâm linh nầy thật sống động trong Thi thiên 139 : 1-10

 

" Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã dò xét tôi, và biết tôi. Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy; Từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi. Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi, Quen biết các đường lối tôi. Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi, Kìa, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã biết trọn hết rồi. Chúa bao phủ tôi phía sau và phía trước, đặt tay Chúa trên mình tôi. Sự tri thức dường ấy, thật diệu kỳ quá cho tôi, Cao đến đổi tôi không với kịp! Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa? Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, Ví tôi nằm dưới âm-phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó. Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông, Bay qua ở tại cuối cùng biển, Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi, Tay hữu Chúa sẽ nắm giữ tôi."

 

Câu " Chúa bao phủ tôi phía sau và phía trước, đặt tay Chúa trên mình tôi." trong tiếng anh nói rằng: "You squeeze me in from behind and in front; you place your hand on me." có nghĩa đúng là: " Chúa ép tôi đằng trước và đằng sau, và còn đặt tay trên mình tôi.

   Một người bị Chúa chi phối đến như thế thì chắc lúc nào cũng tỉnh táo và kính sợ Chúa. Chúa muốn chúng ta cũng có mối tương giao như vậy trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Ngày nay, Đức Thánh Linh đã ở trong mỗi người, hãy để Ngài làm chủ, Ngài uốn nắn, dạy dỗ, an ủi, và kiểm soát chúng ta, đó là điều Đức Chúa Trời muốn.



  Lẽ thật là lời Chúa dạy. Trước khi lên thập giá, Chúa Giê su cầu nguyện với Đức Chúa Trời, Ngài nói Lời Chúa là Lẽ thật và Lẽ thật làm con cái Chúa được nên thánh, Giăng 17: 7

"Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật."

 

   Lẽ thật được chép trong Kinh Thánh, nếu chúng ta cẩn thận đọc và làm theo sẽ không phạm tội, được thánh sạch. Khi dạy dỗ Ti mô thê, sứ đồ Phao lô nói rằng: lời Chúa có tác dụng dạy người trong sự công bình: II Ti mô thê 3: 16 &17

 

" Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành."


  Và trong Giăng 14: 26 Chúa Giê su cũng nói Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ chúng ta qua lời Chúa phán.

 

"Nhưng Đấng Yên ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta đã phán cùng các ngươi."

 

 Cả hai điều: thờ phượng bằng tâm thần và lẽ thật, dù ở nơi đâu, con cái Chúa cũng có thể làm, nhưng không phải ai cũng có thể làm.


   Chúa Giê su khẳng định rằng đó là lối thờ phượng mà Đức Chúa Trời ưa thích.

Có bao giờ chúng ta để ý đến lời dạy nầy mà khởi sự tập tành sự thờ phượng Chúa yêu thích?

 

   Điều Chúa Giê su nói với bà Sa ma ri đây được ghi lại, đã mang một sự an ủi rất lớn cho các tín đồ cả người Giu đa lẫn người Sa ma ri trong lúc bị bắt bớ, trốn chạy, nhóm họp trong hầm mộ, ngoài bờ sông, nơi đồng ruộng.. đều không cảm thấy mình có tội, vì phải thờ phượng một Đức Chúa Trời Chúa vĩ đại nơi không xứng đáng.

  Ở một chỗ khác, Chúa Giê su còn nói thêm rằng, số người cũng không quan trọng

" Vì nơi nào có hai ba người nhân danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ." Ma thi ơ 18:20

 

Với lời tuyên bố nầy, hẳn bà Sa ma ri cảm thấy rất sung sướng, như vậy, bà cũng sẽ có cơ hội được thờ Phượng Chúa như bao người khác.
Bà nói câu hỏi ai đúng, ai sai giữa người Giu đa và người Sa ma ri chỉ có một người có tư cách trả lời đó là Đấng Mê si, vì Đấng Mê si là Con Đức Chúa Trời, Ngài sẽ biết được ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúa Giê su khẳng định với bà Ngài là Đấng đó.


  Chúa Giê su đã tỏ lộ chính Ngài cho một tội nhân, Chúa đến thế gian vì tội nhân, Ngài không bỏ qua một người nào, bà Sa ma ri và toàn xứ Sa ma ri, dù tội lỗi nhiều cũng đều là con cái yêu dấu trong lời hứa của Ngài, họ cũng được ưu tiên trước, hơn cả người ngoại. Công vụ 1:8

" Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất."

Chúa Giê su không làm cho tội nhân mang mặc cảm, Ngài cảm động lòng họ và cho họ có cơ hội ăn năn, cùng đến với Đức Chúa Trời như mọi người.

 

"Phi-líp cũng vậy, xuống trong thành Sa-ma-ri mà giảng về Đấng Christ tại đó. Đoàn dân nghe người giảng và thấy các phép lạ người làm, th́ đồng ḷng lắng tai nghe người nói;" Công vụ 8: 5&6