Công vụ 8: "Hoạn quan Ê thi ô bi tin nhận Chúa Giê su"
Nầy, nước đây, có sự gì ngăn cấm tôi chịu phép báp-tem chăng?
Công vụ 8: "Hoạn quan Ê thi ô bi tin nhận Chúa Giê su"
Câu hỏi:
1/ Hoạn quan Ê thi ô pi đến Giê ru sa lem làm gì?
Ông là người như thế nào?
2/ Chúa sai Phi líp đến với hoạn quan ở đâu? Làm gì?
3/ Các bạn nghĩ gì khi Chúa bảo Phi líp bỏ công trường lớn ở Sa ma ri, để đi làm chứng cho chỉ có một người?
"Hoạn quan Ê thi ô pi tin nhận Chúa Giê su"
** Thiên sứ bảo Phi líp đến với hoạn quan Ê thi ô pi: câu 26 -28
"Bấy giờ, có một thiên sứ của Chúa phán cùng Phi-líp rằng: Hãy chờ dậy đi qua phía nam, trên con đường từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Ga-xa. Đường ấy vắng vẻ. 27 Người chờ dậy và đi. Kìa, có một hoạn quan Ê-thi-ô-bi, làm quan hầu của Can-đác, nữ vương nước Ê-thi-ô-bi, coi sóc hết cả kho tàng bà, đã đến thành Giê-ru-sa-lem để thờ phượng, 28 khi trở về, ngồi trên xe mà đọc sách tiên tri Ê-sai."
Sau khi chứng kiến Đức Thánh Linh được ban xuống người Sa ma ri y như người Do thái, sứ đồ Phi e rơ và Giăng được Chúa khích lệ, vì biết ý muốn Chúa trên dân nầy, nên trên đường trở về Giê ru sa lem, họ cũng vào nhiều làng của người Sa ma ri mà giảng Tin lành cho họ.
Phi líp cũng vậy, ông vui mừng khi làm một con gặt trong một đồng lúa chín vàng của người Sa ma ri.
Nhưng Chúa lại bảo Phi líp đi về một hướng khác.
Chấp sự Phi líp được một thiên sứ của Chúa bảo ông đi xuống phía nam, gần Ga xa, biên giới của Giu đa và Ê thi ô pi để gặp một quan chức của nữ vương Can Đác.
Có hai con đường từ Giê ru sa lem trở về Ga xa, một đường có nhiều người qua lại vì thuận tiện, còn đường kia rất vắng vẻ, trong bản dịch tiếng anh đó là sa mạc.
Ngay chỗ nầy, chúng ta học được cách vâng lời, mà không hề thắc mắc của Phi líp, ông có thể suy luận rằng, ở Sa ma ri là nơi ông đang gặt hái được rất nhiều linh hồn, có phải tốt hơn đi sa mạc để chỉ gặp một người? Phi líp không hỏi Chúa câu nào, ông cứ đi theo lời Ngài dặn bảo. Chúa có chương trình của Ngài, Chúa muốn Tin lành được giảng ra cho người ngoại ở vùng lân cận xứ Giu đa. Chúng ta nhìn theo mắt loài người nhưng Chúa có hướng đi khác.
** Nữ vương Can đác là ai?
Nữ vương Can đác không phải là một huyền thoại, ảnh tượng khắc trên đá, và những chứng cứ thời của bà, hãy còn được lưu giữ trong viện bảo tàng tại anh quốc.
Thời cổ đại, có một quốc gia hùng mạnh ở dọc theo sông Nile gọi là Kush, nhằm vị trí địa lý của Sudan ngày nay.
Quốc gia nầy, có đến tám nữ vương cai trị từ năm 170 trước công nguyên đến năm 314 sau công nguyên. Tất cả các nữ vương đều được gọi là "The Candaces of Meroe" nghĩa là " Queen Mother" hay "Nữ hoàng"
- Nữ hoàng được nhắc trong đoạn nầy có lẽ là nữ vương Amantitere cai trị từ năm 10 trước công nguyên đến năm 41 sau CN.
Đây là thời kỳ cực thịnh của đất nước nầy, nhờ buôn bán nông sản và các khí cụ kim loại, lại có đường giao thông bằng đường thuỷ, họ trở nên giàu có và hùng mạnh, họ đã đánh bại cả La mã là Augustus Caesar.
Căn cứ theo niên đại lịch sử, trong tám nữ vương nầy, không có ai liên quan gì đến nữ vương Sê ba thời vua Sô lô môn ( khoảng 910 năm trước công nguyên) theo các sử gia, nữ vương Sê ba có thể ở một trong những vương quốc Nam Ả Rập, có thể là Yemen ngày nay. Tuy vậy không có thêm tin tức nào khác về nữ vương Sê ba, nhưng các nữ vương Can đác trong đoạn nầy đều có nhiều chứng cớ.
** Hoạn quan Ê thi ô bi - Người đi xa tìm Chúa:
Hoạn quan Ê thi ô bi không được nêu tên, nhưng Kinh thánh nêu chức vụ của ông, ông là một quan chức lớn của nữ vương, ông coi sóc hết các kho tàng của bà. Không biết ông theo Do thái giáo từ khi nào, nhưng Kinh thánh nói ông đến Giê ru sa lem để thờ phượng, khi trở về, trên đường, ông đọc sách Ê sai.
Chúng ta có thể hình dung được người nầy, ông ở một xứ rất xa, đi khó nhọc nhiều ngày tới Giê ru sa lem chỉ để thờ phượng, ông có chức vụ cao, rất giàu có, nhưng không thoả mãn với những gì mình đang sở hữu, xứ sở của ông đầy dẫy thần tượng, nhưng ông lại muốn đi tìm chính Đức Chúa Trời để thờ phượng, ông không chỉ nghe, mà còn muốn tìm hiểu lời của Chúa, nên ông đã mua một cuộn giấy chép Kinh thánh để đọc. Thời đó, để có một cuộn giấy như vậy phải rất đắt tiền, trên đường về, ông mở sách ra đọc, lật nhằm trang Tiên tri Ê sai 53 nói tiên tri về Chúa Giê su và không hiểu.
** Phi líp được sai đến để giải thích lời Kinh thánh: câu 29-31
"Đức Thánh Linh phán cùng Phi-líp rằng: Hãy lại gần và theo kịp xe đó. 30 Phi-líp chạy đến, nghe người Ê-thi-ô-bi đọc sách tiên tri Ê-sai, thì nói rằng: Ông hiểu lời mình đọc đó chăng? 31 Hoạn quan trả lời rằng: Nếu chẳng ai dạy cho tôi, thể nào tôi hiểu được? Người bèn mời Phi-líp lên xe ngồi kề bên."
Khi Phi líp được Chúa Thánh Linh sai phải chạy đến gần xe của hoạn quan, chắc Phi líp ngần ngại, Hoạn quan không đi một mình, ông có người hầu và cũng có thể có quân lính. Hoạn quan ngồi trên xe nhưng tuỳ tùng của ông chạy bộ.
Chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh nầy, nếu giàu tưởng tượng đã nghĩ rằng, Chúa Thánh Linh giúp Phi líp bay thẳng từ Sa ma ri đến Sa mạc để gặp hoạn quan, nhưng Kinh thánh không nói vậy, Phi líp phải tự mình đi đến đây trước để đón hoạn quan, và khi xe đi qua, ông phải chạy đến mà tiếp cận.
Thời xưa, rất phổ biến khi người ta đọc sách thường có lối đọc lớn, khi đến gần, thì Phi líp có thể nghe thấy, và Phi líp cũng biết người trong xe đó đọc đến đoạn nào trong Kinh thánh.
Nghe hoạn quan đọc tiên tri Ê-sai, Phi-líp biết rằng ngay lúc đó, Đức Chúa Trời đã ban cho ông một cánh cửa rộng mở, một tấm lòng đã chuẩn bị.
Rõ ràng, Chúa đã sắp xếp cuộc gặp gỡ này giữa Phi líp và người Ethiopia; đây là một ví dụ tuyệt vời về cách Chúa mở ra những cánh cửa cho công cuộc truyền giáo. Chúa đã sai Phi líp đi vì Ngài đã mở sẳn một cánh cửa, một trong những việc cần làm trong việc rao giảng Tin lành là cần cầu nguyện cho những cánh cửa mở. Sau khi đã cầu nguyện cho những cánh cửa mở, chúng ta phải luôn canh chừng, đừng bỏ lỡ những cơ hội mà Chúa ban tặng.
Phi líp là một nhà truyền giáo có hiệu quả, ông biết tìm thấy những gì Chúa Thánh Linh muốn làm. Ông thực sự được Chúa Thánh Linh dẫn dắt, chứ không phải theo ý thích và cảm xúc của riêng mình.
*** Ông hiểu lời mình đọc đó chăng?
Đây là lời mời gọi hợp thời và hợp lý, là lời đề nghị tinh tế để giải thích đoạn văn, nếu hoạn quan Ethiopia muốn tiếp nhận. Hoạn quan đã trả lời rất chân thành: "Nếu chẳng ai dạy cho tôi, thể nào tôi hiểu được?" Vì lý do đó, ông mời Phi líp cùng lên xe với mình, thật là một cuộc gặp gở rất tự nhiên và việc làm chứng đang diễn ra thuận lợi.
** Phi líp giảng về Chúa Giê su cho Hoạn quan: câu 32 -35
" Vả, chỗ người đọc trong Kinh Thánh là đoạn nầy: Người đã bị kéo đi như con chiên đến hàng làm thịt, Lại như chiên con câm trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng mở miệng. 33 Trong khi người hèn hạ thì sự đoán xét Người đã bị cất đi. Còn ai sẽ kể đời của Người? Vì sự sống Người đã bị rút khỏi đất rồi. 34 Hoạn quan cất tiếng nói cùng Phi-líp rằng: Tôi xin hỏi ông, đấng tiên tri đã nói điều đó về ai? Có phải nói về chính mình người chăng, hay là về người nào khác? 35 Phi-líp bèn mở miệng, bắt đầu từ chỗ Kinh Thánh đó mà rao giảng Đức Chúa Jêsus cho người."
Điều lạ lùng là trong các nhà hội Do thái, người Giu đa không muốn đọc Tiên tri Ê sai 53, vì trong đó Ê sai nói rằng Đấng Mê si sẽ bị dân sự chán ghét, hành hại và giết Ngài. Dường như hoạn quan cảm động về người được nói tiên tri đó, ông muốn hỏi đó là ai mà tiên tri muốn nói đến?
Được lời như mở tấm lòng, Phi líp giảng cho hoạn quan nghe về Chúa Giê su đã được ứng nghiệm.
Bài giảng của Phi-líp có hiệu quả trên người nghe, ông giải thích Chúa Jesus là ai và những gì Ngài đã làm cho chúng ta, đó là cốt lõi của truyền giảng. Phi líp đã đem đến cho tội nhân điều mà họ cần biết, là sự hy sinh của Đấng Christ và sự tha thứ của Đức Chúa Trời.
*** Hoạn quan tin nhận và làm Báp têm: câu 36 -40
" Hai người đang đi dọc đường, gặp chỗ có nước, hoạn quan nói rằng: Nầy, nước đây, có sự gì ngăn cấm tôi chịu phép báp-tem chăng? 37 Phi-líp nói: Nếu ông hết lòng tin, điều đó có thể được. Hoạn quan trả lời rằng: Tôi tin rằng Đức Chúa Jêsus Christ là Con Đức Chúa Trời. 38 Người biểu dừng xe lại; rồi cả hai đều xuống nước, và Phi-líp làm phép báp-tem cho hoạn quan. 39 Khi ở dưới nước lên, thì Thánh Linh của Chúa đem Phi-líp đi; hoạn quan chẳng thấy người nữa, cứ hớn hở đi đường. 40 Còn Phi-líp thì người ta thấy ở trong thành A-xốt; từ đó người đi đến thành Sê-sa-rê, cũng giảng Tin Lành khắp những thành nào mình đã ghé qua."
Nếu chúng ta để ý, không phải Phi líp bảo hoạn quan làm báp têm, nhưng chính hoạn quan đề nghị được làm báp têm, ông nói: " có sự gì ngăn cấm tôi chịu phép báp-tem chăng? điều nầy chứng tỏ Đức Thánh Linh đã cảm xúc trong lòng người, để người ấy xưng nhận đức tin của mình.
Nếu Phi líp trở về, khoe rằng tôi đã làm siêu lòng người ấy, về khả năng giải thích kinh thánh tuyệt vời của tôi, thì có lẽ, tên của ông không được chép trong kinh thánh cùng với danh xưng " Phi líp, người giảng Tin lành" Mọi điều ông làm, đều nhờ cậy Đức Thánh Linh.
*** Một vũng nuớc:
Từ nầy được dịch hoàn toàn đúng, " some water" là một vũng nước, vì đi trong sa mạc.
Hoạn quan từ xứ sở của sông Nile, người giàu có Ê thi ô bi rất sạch sẽ, một ngày tắm hai lần trên sông Nile, bây giờ có vũng nước nhỏ dọc đường, dĩ nhiên không phải là nước sạch, mà hoạn quan vẫn đòi được làm Báp têm tại đó, Phi líp nói: Nếu ông tin Chúa Giê su thật lòng thì được, Phi líp rất khéo, ông đề nghị để chính miệng hoạn quan nói rằng: " Tôi tin Chúa" rồi làm báp têm tại vũng nước bên đường. Dù việc làm báp têm cho hoạn quan được diễn tả ngắn gọn, nhưng chúng ta biết phép báp têm nầy là dìm mình xuống nước, chứ không phải chỉ rảy nước.
Người được Đức Thánh Linh cảm hoá sẽ luôn muốn làm Báp têm tin nhận Chúa cách nghiêm túc và ngay lập tức. Người chần chừ, người viện đủ lý do để làm cho việc thực hiện Báp têm thành khó khăn, không phải là một tấm lòng thực sự Tin nhận Chúa.
Kinh thánh không cần nói Đức Thánh Linh được ban xuống cho hoạn quan hay không, nhưng mọi người đều có thể nói chắc chắn rằng có, vì Ngài đã chứng kiến, rồi đem Phi líp đi mất.
Hoạn quan hớn hở vì bây giờ ông được tin nhận Chúa, ông vui mừng khi Chúa Giê su đến với ông, ông cho rằng mình vừa được ban một món quà quý giá để đi về xứ của mình.
Sau nầy, khi nhiều tín đồ bị bắt bớ, họ tản lạc qua Ê thi ô bi, ở đó Tin lành cũng được tiếp tục tràn ra, nghe nói người ta có làm một kỷ niệm ở tại Ga xa để tưởng nhớ việc hoạn quan tin nhận Chúa Giê su ở đó.
*** Phi líp được Đức Thánh Linh đem đi:
Ở phần trên, nếu chúng ta nói Phi líp được Đức Thánh Linh đem đến sa mạc gặp hoạn quan thì không đúng, vì Ngài bảo ông chạy theo xe, nhưng lúc về, quả thật Đức Thánh Linh có đem Phi líp đi một cách siêu nhiên, đến thành phố A-xô-tút trước đây của người Phi-li-tin, rồi sau đó đến thành Sê-sa-rê, cũng có nhiều người ngoại.
Không có gì ngạc nhiên khi Philip là người duy nhất trong Tân Ước được trao tặng danh hiệu cụ thể là “Người truyền bá Phúc âm” (Công vụ 21:8).
Cũng chính ông là người đầu tiên được Đức Thánh Linh dẫn đi, đem Tin lành tặng cho một người ngoại mà còn là người hoạn mà trong cựu ước, Đức Chúa Trời không cho họ vào đền thánh của Ngài: Phục truyền 23:1
"Người hoạn, hoặc vì ngoại thận bị dập, hay là bị cắt, sẽ không được phép vào hội của Đức Giê-hô-va."
Và khi sự cứu rỗi đến, Kinh thánh chép về người ngoại và người hoạn như sau: Ê sai 56: 3 -7
"Người dân ngoại liên hiệp cùng Đức Giê-hô-va chớ nên nói rằng: Đức Giê-hô-va chắc sẽ biệt ta ra khỏi dân Ngài. Kẻ hoạn cũng chớ nên nói rằng: Nầy, ta là cây khô. 4 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Những kẻ hoạn hay giữ các ngày Sa-bát ta, lựa điều đẹp lòng ta, cầm vững lời giao ước ta, 5 thì ta sẽ ban cho họ tại trong nhà ta và trong tường ta một chỗ, và một danh tốt hơn danh của con trai con gái; ta lại sẽ ban cho họ một danh đời đời chẳng hề dứt đi. 6 Các người dân ngoại về cùng Đức Giê-hô-va, đặng hầu việc Ngài, đặng yêu mến danh Đức Giê-hô-va, đặng làm tôi tớ Ngài; tức là hết thảy những kẻ giữ ngày Sa-bát cho khỏi làm ô uế, và cầm vững lời giao ước ta, 7 thì ta sẽ đem họ lên trên núi thánh ta, làm cho họ vui mừng trong nhà cầu nguyện ta. Của lễ thiêu và hi sinh họ dâng trên bàn thờ ta, sẽ được nhận lấy; vì nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc."