Công vụ các sứ đồ 8: " Sau lơ bắt bớ Hội thánh"

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ê-phê-sô 2: 8

Công vụ các sứ đồ 8: " Sau lơ bắt bớ Hội thánh"

 

Đọc Công vụ 8: 1 - 6

 

Câu hỏi:

 

1/ Sau lơ là ai? Vì sao ông bắt bớ Hội Thánh Chúa Giê su?

 

2/ Sự bách hại làm cho các cơ đốc nhân phải làm gì?
Tai nạn đó có khiến cho đạo Chúa biến mất không?

 

3/ Phi líp là ai? Ông bắt đầu giảng Tin lành ở đâu?
Thành kiến và sự kỳ thị có làm trở ngại cho việc truyền giảng Tin lành không?

 

         " Sau lơ bắt bớ Hội thánh"

 

** Hội thánh bị bách hại và tan lạc: câu 1

" Sau-lơ vốn ưng thuận về sự Ê-tiên bị giết. Trong lúc đó, Hội thánh ở thành Giê-ru-sa-lem gặp cơn bắt bớ dữ tợn; trừ ra các sứ đồ, còn hết thảy tín đồ đều phải chạy tan lạc trong các miền Giu-đê và xứ Sa-ma-ri."

 

Sau lơ chính là Phao lô. Nhiều người nghĩ Phao lô đổi tên, nhưng không, Phao-lô không đổi tên theo nghĩa đen; tên ông trong tiếng Do Thái là Sau lơ "Saul" và vì ông có quốc tịch La mã, nên có tên theo La Mã là Phao lô "Paul".

 Sự thay đổi này liên quan đến tên mà ông muốn sử dụng cho thích hợp, đặc biệt sau khi cải đạo, và khi phục vụ những người ngoại bang, Phao lô đã chọn sử dụng tên "Paul" chủ yếu để kết nối với đối tượng ngoại bang của mình, và cũng có thể thoát khỏi quá khứ gắn liền với tên Sau lơ, kẻ bắt bớ Hội thánh.

 

**Sau-lơ vốn ưng thuận về sự Ê-tiên bị giết:

Trong tiếng Hy Lạp cổ suneudokeo có nghĩa là "chấp thuận, hài lòng". Có người theo lệnh của các Thầy Tế lễ bắt bớ người theo Chúa Giê su cách miễn cưỡng, nhưng Sau lơ không phải thế; Sau lơ rất sốt sắng và thích tấn công các Cơ đốc nhân.

Trong Phi-líp 3:5 &6, Phao-lô nói về cuộc đời của mình trước khi tin Chúa Giê su rằng:

 

" Tôi chịu phép cắt bì ngày thứ tám, về dòng Y-sơ-ra-ên, chi phái Bên-gia-min, người Hê-bơ-rơ, con của người Hê-bơ-rơ; về luật pháp, thì thuộc phe Pha-ri-si; 6 về lòng sốt sắng, thì là kẻ bắt bớ hội thánh; còn như về sự công bình của luật pháp, thì không chỗ trách được."

Phao lô đã quá sốt sắng trong đức tin tôn giáo của mình, đến nỗi ông bắt bớ hội thánh cách dữ tợn. Việc Sau lơ giám sát việc hành quyết Ê tiên chỉ là một ví dụ về cuộc bắt bớ này. Nhưng sau đó Phao lô đã vô cùng hối hận về việc mình đã làm với Hội thánh Đấng Christ.


Phao lô viết trong 1 Cô-rinh-tô 15:9 rằng:

"Vì tôi là rất hèn mọn trong các sứ đồ, không đáng gọi là sứ đồ, bởi tôi đã bắt bớ Hội thánh của Đức Chúa Trời."


Và có lẽ điều ông hối hận nhất được chép trong Công vụ 26: 9 -11

" Thật, chính mình tôi đã tin rằng nên dùng đủ mọi cách thế mà chống lại danh Jêsus ở Na-xa-rét. 10 Thật tôi đã làm sự nầy tại thành Giê-ru-sa-lem: sau khi đã chịu quyền của các thầy tế lễ cả, thì tôi bỏ tù nhiều người thánh; và lúc họ giết các người đó, tôi cũng đồng một ý. 11 Vả lại, tôi thường trảy đi từ nhà hội nầy đến nhà hội kia, hà hiếp họ, để bắt họ phải nói phạm thượng, tôi lại nổi giận quá bội bắt bớ họ cho đến các thành ngoại quốc."

 

  Sau cái chết của Ê tiên, sự bắt bớ các Cơ đốc nhân bùng nổ, Sau lơ chỉ là một trong nhiều kẻ bắt bớ Hội Thánh Chúa.
Đạo Chúa bị đàn áp dữ dội, các tín hữu bị bắt, bị đánh đập, họ bị đe dọa bằng bạo lực và có thể là cái chết. Sự đàn áp khiến cho các Cơ đốc nhân bị phân tán ra khắp các vùng lân cận.


  Bấy giờ, những người theo đạo Chúa không phải có ý định sẳn, nhưng vì bị bắt bớ mà thông điệp của Chúa Giê su đã theo họ lan rộng ra đến các vùng xung quanh, y như lời Chúa Giê su đã nói, bắt đầu từ Giê ru sa lem đến xứ Giu đê, Sa ma ri cho tới cùng trái đất.


  Có hai từ trong tiếng Hy lạp về ý nghĩa rải rác, một từ là rải ra rồi biến mất, một từ khác có nghĩa rải ra như gieo hột giống, từ thứ hai như gieo hột giống được dùng trong Kinh Thánh ở đây, nó được rải ra để được mọc lên chứ không phải biến mất.


Cho đến lúc nầy, người theo đạo Chúa vẫn chưa ý thức được cách mình gieo giống như thế nào, nhưng sau nầy, khi nhìn lại kết quả của việc truyền bá phúc âm lan rộng, một số người đã coi cuộc đàn áp này là ý muốn của Chúa. Ngài có thể sử dụng những hoàn cảnh bất lợi, khiến chúng ta đi theo ý muốn của Ngài. Đôi khi chúng ta phải bị di chuyển khỏi trạng thái thoải mái của mình để thực hiện những gì Chúa muốn chúng ta làm.

 

** Ê tiên được chôn cất: câu 2

 

" Dầu vậy, có mấy người tin kính chôn xác Ê-tiên và than khóc người quá bội. "

 

** Người tin kính (devout men)

     hay còn được gọi là người mộ đạo, chứ không phải người theo đạo. Điều nầy chứng tỏ, trong dân Giu đa, không phải tất cả đều là kẻ thù của Cơ đốc giáo, có những người mến mộ đạo Chúa, nhưng chưa theo.
Họ đã đến chôn xác Ê tiên. Có lẽ sự hung hãn của bậc cầm quyền trên cái chết Ê tiên làm cho các tín hữu hoảng sợ, nhưng Chúa lại cho những người nầy đến nhận xác Ê tiên và chôn.

Có một điều đặt biệt ở đây là những người đàn ông mộ đạo nầy đã than khóc cho Ê tiên.


Theo luật pháp, khi một người bị hành hình như vậy, sẽ bị cấm than khóc, nhưng họ không sợ mà vẫn bày tỏ tấm lòng mình trước cái chết của Ê tiên, họ khóc thương quá bội cách công khai.

  Chúa Giê su dù bị hành hình kinh khủng vẫn được chôn như người giàu có, Ê tiên dù bị ném đá, vẫn được đem chôn có những người khóc than, thương tiếc.

** Sau lơ tiếp tục tàn hại Hội Thánh: câu 3 &4

" Nhưng Sau-lơ làm tàn hại Hội thánh: sấn vào các nhà, dùng sức mạnh bắt đàn ông đàn bà mà bỏ tù. 4 Vậy, những kẻ đã bị tan lạc đi từ nơi nầy đến nơi khác, truyền giảng đạo Tin Lành."

 

  Chữ " Tàn hại" mà Kinh thánh ghi ra cho hành động của Sau lơ, được sử dụng một từ Hy Lạp cổ có thể ám chỉ một đội quân phá hủy một thành phố, hoặc một con thú hoang đang xé thịt con mồi. Sau lơ đã tấn công những người theo đạo Thiên chúa một cách tàn bạo, bao gồm cả phụ nữ.

 

Công vụ 9:1
" Bấy giờ, Sau-lơ chỉ hằng ngăm đe và chém giết môn đồ của Chúa không thôi, đến cùng thầy cả thượng phẩm,"


Công vụ 22: 4
" Tôi từng bắt bớ phe nầy cho đến chết, bất kỳ đàn ông đàn bà, đều xiềng lại và bỏ tù:"


Công vụ 26: 10
" Thật tôi đã làm sự nầy tại thành Giê-ru-sa-lem: sau khi đã chịu quyền của các thầy tế lễ cả, thì tôi bỏ tù nhiều người thánh; và lúc họ giết các người đó, tôi cũng đồng một ý."

 

  Trong khi Sau lơ cùng các người khác tàn hại, rượt đuổi các Cơ đốc nhân, thì họ chạy trốn, tình cờ đem sứ điệp của Tin lành đến cho những người ở nơi họ đến.

  Các nhà ngôn ngữ học nêu ra hai chữ " Truyền giảng đạo Tin lành" ở đây sai với bản dịch chánh, vì họ không có ý định truyền giảng như một người đi rao giảng Phúc âm, nhưng họ đã đem hột giống Phúc âm đến những vùng đất mà họ ở.

Trong mọi nhà thờ thực sự có quyền năng của Đức Thánh Linh, Chúa sẽ khiến quyền năng đó lan rộng ra. Một nhà thờ không phải một Hội kín, cần được bọc trong vỏ bí mật. Nhưng hương thơm quý giá của phúc âm phải được đổ ra để lan toả trong không khí. Đời sống của mỗi Cơ đốc nhân cũng phải được thắp sáng như ngọn đèn trong đêm tối.

 

** Phi líp đem Tin lành đến cho dân thành Sa ma ri: câu 5 -8

 

" Phi-líp cũng vậy, xuống trong thành Sa-ma-ri mà giảng về Đấng Christ tại đó. 6 Đoàn dân nghe người giảng và thấy các phép lạ người làm, thì đồng lòng lắng tai nghe người nói; 7 vì có những tà ma kêu lớn tiếng lên mà ra khỏi nhiều kẻ bị ám, cùng kẻ bại và què được chữa lành cũng nhiều. 8 Tại cớ đó, trong thành được vui mừng khôn xiết."

 

Ở phần trên, chúng ta biết đa số các Cơ đốc nhân bị bắt bớ đã tản lạc, vô tình rải hạt giống Tin lành ra khắp xứ Giu đê và Sa ma ri. Chỗ nầy, Kinh thánh nêu đích danh tên một người, tên ông được gắn liền với chữ giảng Tin lành là "Phi líp người giảng Tin lành" trong Công vụ 21: 8 ( Philip the Evangelist)

Giống như Ê tiên, Phi líp là một trong những người được chọn để phục vụ các góa phụ gốc Hy Lạp. Khi cơn bắt bớ bùng nổ, Phi líp cũng buộc phải chạy trốn khỏi sự đàn áp như những người khác, sau đó Phi líp đã dừng lại ở Sa ma ri.

Khoảng 750 năm trước, người Assyria đã chiếm xứ Sa ma ri, lúc ấy, Sa ma ri thuộc miền bắc Y sơ ra ên, khi Assyria đến, họ trục xuất tất cả những người Do Thái từ trung lưu đến giàu có ra khỏi khu vực. Sau đó, họ đem một nhóm dân ngoại từ xa cho định cư ở đó. Những người ngoại giáo này kết hôn với tầng lớp thấp kém của Do Thái còn lại, từ đó, những người này xuất hiện, bị gọi là người Sa-ma-ri.

Dân Giu đa thời đó luôn luôn ghét người Sa-ma-ri, coi họ là những kẻ lai tạp, thỏa hiệp với thần tượng, làm hư hỏng sự thờ phượng Đức Chúa Trời chân chính. Các sử gia ghi nhận, có một thành kiến ​​sâu sắc, gần như là lòng căm thù, đã tồn tại giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri.

Câu chuyện Chúa Giê su giảng đạo cho người đàn bà Sa ma ri (Giăng 4), cũng như câu chuyện về người Sa ma ri nhân lành ( Lu ca 10) đã minh hoạ được sự căng thẳng giữa người Sa ma ri và dân Giu đa.


  Tuy nhiên, Phi-líp đã không bị thành kiến đó ngăn trở, ông sẳn lòng rao giảng về Đấng Christ cho họ. Nếu Chúa Giê su đã không khinh chê họ, thì Phi líp cũng không để định kiến ​​này trong trái tim ông.

  Phi líp không kỳ thị người Sa-ma-ri. Người rao giảng Tin lành phải bước qua đinh kiến về sự kỳ thị chủng tộc, hay những kỳ thị khác. Phi líp là một điển hình.

 

** Đoàn dân nghe người giảng và thấy các phép lạ người làm:

Phi-líp đến Sa ma ri để trình bày phúc âm, Chúa ban cho ông năng quyền để làm các dấu hiệu và phép lạ và đuổi quỷ, điều nầy xảy ra như một sự xác nhận của Chúa về chức vụ của Phi líp đang làm. Khi mọi người tìm thấy sứ điệp cứu rỗi của Chúa Giê su, họ có niềm vui lớn trong thành phố đó.

Chúa Jesus đã gieo hạt giống ở Sa-ma-ri trong thời gian thi hành chức vụ của Ngài (Giăng 4:1-26). Bây giờ Phi-líp đến để gặt hái được mùa màng.

 Niềm vui lớn trong thành phố Sa ma ri đến từ nỗi buồn và đau đớn ở Giê-ru-sa-lem. Phi líp đã mang sự thanh tẩy đến cho Sa ma ri, một xứ nguyên là anh em của Giu đa, bị khinh bỉ, bị ô uế, bây giờ được Chúa cho phục hồi trong quyền năng mới. Sau khi tin nhận Chúa, họ sẽ được ngồi bên cạnh các anh em khác của mình, cùng trong Hội thánh Đấng Christ. Chúng ta cũng là người ngoại, cũng bị xa lánh, nhưng nhờ Chúa Giê su mọi người đã trở thành anh chị em, như trong sách Ê phê sô 2: 13 -19 chép:

 

" Nhưng trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em là kẻ ngày trước cách xa, hiện nay đã nhờ huyết Đấng Christ mà được gần rồi. 14 Vì, ấy chính Ngài là sự hòa hiệp của chúng ta; Ngài đã hiệp cả hai lại làm một, phá đổ bức thường ngăn cách, 15 là sự thù nghịch đã phân rẽ ra, bởi vì Ngài đã đem thân mình mà trừ bỏ luật pháp của các điều răn chép thành điều lệ. Như vậy, khi làm cho hòa nhau, Ngài muốn lấy cả hai lập nên một người mới trong Ngài, 16 và vì bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một thể, mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời. 17 Ngài lại đã đến rao truyền sự hòa bình cho anh em là kẻ ở xa, và sự hòa bình cho kẻ ở gần. 18 Vì ấy là nhờ Ngài mà chúng ta cả hai đều được phép đến gần Đức Chúa Cha, đồng trong một Thánh Linh. 19 Dường ấy anh em chẳng phải là người ngoại, cũng chẳng phải là kẻ ở trọ nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ, và là người nhà của Đức Chúa Trời. "