Công vụ 15: "Hội Đồng Giêrusalem lần 1

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

" ấy là một phần dân Y-sơ-ra-ên đă sa vào sự cứng ḷng, cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ;" Rô ma 11: 25 b

Công vụ 15: "Hội Đồng Giêrusalem lần 1: Người ngoại không cần cắt bì"

 

Đọc Công vụ 15: 13 -29

 

Câu hỏi:

1/ Vì sao dân ngoại không cần phải trở nên dân Y sơ ra ên mới được cứu rỗi?

 


2/ Hội đồng đưa ra kết luận gì liên quan đến sự cứu rỗi của dân ngoại?
    Ban lãnh đạo dựa trên tinh thần gì để quyết định?

 

3/ Ba điều kiêng cử dành cho dân ngoại có ý nghĩa gì đối với họ?
     Và có ý nghĩa gì đối với cộng đồng của Hội Thánh?

 


" Kết luận của Hội Đồng lần 1, về việc người ngoại không cần cắt bì"

 

*** Gia Cơ kết luận về việc không cần cắt bì cho người ngoại tin nhận Chúa: câu 13 -20

 

"Nói xong, Gia-cơ cất tiếng lên rằng: Hỡi anh em, hãy nghe tôi! 14 Si-môn có thuật thế nào lần thứ nhất, Đức Chúa Trời đã đoái thương người ngoại, đặng từ đó lấy ra một dân để dâng cho danh Ngài. 15 Điều đó phù hiệp với lời các đấng tiên tri, vì có chép rằng: 16 Rồi đó, ta sẽ trở lại, Dựng lại đền tạm của vua Đa-vít bị đổ nát; Ta sẽ sửa sự hư nát đền đó lại Mà gây dựng lên; 17 Hầu cho những người sót lại Và mọi dân cầu khẩn danh ta đều tìm Chúa. Chúa là Đấng làm nên những việc nầy có phán như vậy; 18 từ trước vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó. 19 Vậy, theo ý tôi, thật chẳng nên khuấy rối những người ngoại trở về cùng Đức Chúa Trời; 20 song khá viết thơ dặn họ kiêng giữ cho khỏi sự ô uế của thần tượng, sự tà dâm, sự ăn thị thú vật chết ngột và huyết. 21 Vì trải bao nhiêu đời nay, trong mỗi thành vẫn có người giảng luật pháp Môi-se, bởi mọi ngày Sa-bát, trong các nhà hội người ta có đọc luật ấy. "


  Gia-cơ này không phải là sứ đồ Gia-cơ, người đã tử đạo được ghi lại trong Công vụ 12:2.

 Đây là người mà theo truyền thống được gọi là James the Just – em cùng cha khác mẹ với Chúa Giê-su (Ma-thi-ơ 13:55).

Chúa Giê su có bốn anh em, hai người viết hai sách trong Kinh Thánh là Gia cơ ( James) và Giu đe ( Judas) -

Sách Ma-thi-ơ nêu tên Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn và Giu-đa. Sách cũng đề cập đến các chị em của Ngài, nhưng không nêu tên. Hai trong số các anh em này đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Hội Thánh.

 Em trai của Chúa Giê-su, Gia-cơ, là tác giả của thư Gia-cơ và trở thành vị lãnh đạo thứ hai của Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem sau khi Chúa Giê-su thăng thiên, người nầy thay thế vị trí của sứ đồ Gia cơ bị chém đầu, do đó, sau khi Phi e rơ phát biểu, Gia cơ đã đứng lên bày tỏ quan điểm của mình thuận với sự kêu gọi của Phi e rơ, Phao lô và Ba na ba.

                   Đó là ý muốn và ân điển của Đức Chúa Trời trên người ngoại.

Điều thú vị là, Gia-cơ là chủ tọa của Hội đồng, chứ không phải Phi-e-rơ. Những học giả khi nói về sự lãnh đạo của Gia-cơ cho biết: “Việc hội thánh sẵn sàng công nhận sự lãnh đạo của Gia cơ là do tính cách và thành tích cá nhân của ông, hơn là mối quan hệ huyết thống của ông với Chúa Giê su."


Thật vậy, ở nơi Gia-cơ, Đức Thánh Linh đã ban cho ông một tầm nhìn thuộc linh, không giới hạn trong sự hiểu biết của con người. Khi ông tuyên bố trong câu 14 rằng:


" Đức Chúa Trời đã đoái thương người ngoại, đặng từ đó lấy ra một dân để dâng cho danh Ngài."

 

Đây là một ý tưởng làm cho dân Giu đa rất ngạc nhiên, họ chỉ nghĩ họ là một dân được chọn duy nhất. Từ rất sớm, Đức Thánh Linh đã bày tỏ ý muốn của Ngài cho dân Do Thái hiểu rằng, họ không phải là dân duy nhất mà Chúa kêu gọi, họ phải chấp nhận một dân khác - Dân của cộng đồng Đức Chúa Trời, được Ngài thu góp trên toàn thể thế giới.

 

Từ Hy Lạp cổ chỉ dân ngoại là Ethne. Nhưng Gia cơ dùng chữ dân tộc trong đoạn văn này là Laos. Người Do Thái tự coi mình là Laos của Chúa, chứ không bao giờ thuộc về Ethne. Đối với họ, Ethne và Laos là hai từ đối lập & tương phản. Vì vậy, thật khó khăn cho họ khi nghe rằng Chúa ban đầu đã đến thăm dân ngoại (Ethne) để chọn họ làm thành dân tộc Laos.

 

Khi một tôi tớ đầy dẫy Đức Thánh Linh như Gia cơ, ông sẽ nắm bắt được kế hoạch của Đức Chúa Trời nằm trong Kinh Thánh. Lời của Gia cơ cũng là tinh ý trong sách A mốt 9: 11 &12

" Trong ngày đó, ta sẽ dựng lại nhà tạm của Đa-vít, là nhà đã đổ, và tu bổ lại những chỗ rách nát của nó. Ta sẽ dựng lại những nơi đổ nát và xây nó lại như ngày xưa; 12 đến nỗi chúng nó sẽ thâu được những dân sót của Ê-đôm và hết thảy các nước được xưng bởi danh ta, Đức Giê-hô-va là Đấng làm trọn mọi điều ấy phán vậy."

Dân Chúa Laos được Chúa định nghĩa, không phải dựa trên địa lý, nhưng trên danh phận của nó là: " Các nước được xưng bởi danh ta". Điều này chứng tỏ những gì Đức Chúa Trời đã làm giữa dân ngoại có nền tảng Kinh Thánh.

 

Đối với các Tín hữu, thẩm quyền được giải quyết các xung đột được giao phó cho các sứ đồ và người đứng đầu Hội Thánh, nhưng thật sự, thẩm quyền tối cao cùng nằm trong Lời Chúa. Một quyết định đúng sẽ không mâu thuẩn với Lời Kinh Thánh.


Xưa và nay cũng vậy, các hội đồng không có thẩm quyền trong hội thánh trừ khi có thể chứng minh rằng kết luận của họ phù hợp với Kinh Thánh.

 

Khi trưng dẫn sách A mốt, Gia cơ chứng minh rằng, Đức Chúa Trời không kêu gọi dân ngoại trở thành dân Do Thái, cho nên đừng áp đặt luật của Do Thái trên họ.

 Gia cơ đã đưa ra quyết định cuối cùng để mọi người tuân theo, là không làm phiền người ngoại về các luật riêng của dân Do Thái, nhưng trong tinh thần chung của luật pháp thì họ vẫn phải giữ, liên quan đến sự kính mến Chúa, không thờ Tà thần, tránh ăn huyết, vật chết ngộp, tôn trọng sự Cứu chuộc, và giữ sự tinh sạch của thân thể vì Đức Thánh Linh đang ở cùng người Tin Chúa.

 

Ba điều răn này liên quan đến thói quen ăn uống và cách ăn ở của các Cơ Đốc nhân Ngoại bang.

Vẫn còn những điều cấm mà Kinh Thánh dạy biểu, nhưng ba điều nầy gây rất khó chịu cho cộng đồng Do Thái nếu dân ngoại đem nó vào Hội Thánh.

 Người Do Thái không muốn thấy thần tượng, người Do Thái không bao giờ đụng đến huyết và người Do Thái lên án việc sống buông thả theo tình dục.

Gia-cơ có ngụ ý bảo những người Ngoại bang sống trong mối quan hệ gần gũi với các tín đồ Do Thái phải tuân thủ các quy định cụ thể về hôn nhân được quy định trong Lê-vi Ký 18, cấm kết hôn giữa hầu hết các thành viên trong gia đình. Điều này sẽ xúc phạm người Do Thái, nhưng ngày xưa, hầu hết người Ngoại bang lại không mấy quan tâm.

Ăn đồ ăn cúng tế, ăn huyết hay vật chết ngộp là ba thứ đại kỵ của Tín đồ Do Thái, liên quan đến điều luật trong Lê vi ký 17 & 18 - Những thói quen nầy ngăn trở mối thông công trong các bửa ăn chung của Hội Thánh.

 

*** Từ quyết định đi đến văn bản: câu 22 - 29

 

" Kế đó, các sứ đồ và trưởng lão cùng cả Hội thánh bèn quyết định sai những người được chọn ở nơi mình đi với Phao-lô và Ba-na-ba đến thành An-ti-ốt. Ấy là Giu-đe, cũng gọi là Ba-sa-ba, và Si-la, là hai người đứng đầu trong hàng anh em; 23 rồi giao cho hai người bức thơ như sau nầy: Các sứ đồ, trưởng lão và anh em gởi lời chào thăm anh em trong những người ngoại tại thành An-ti-ốt, trong xứ Sy-ri và xứ Si-li-si! 24 Bởi từng nghe có một vài người trong vòng chúng ta, chẳng lãnh mạng lịnh nào nơi chúng ta, tự lấy lời mình khuấy rối, và biến loạn lòng các ngươi nữa, 25 nên chúng ta đồng lòng quyết ý chọn những người thay mặt sai đi cùng kẻ rất yêu dấu của chúng ta là Ba-na-ba và Phao-lô, mà đến nơi các ngươi; 26 hai người nầy vốn đã liều thân vì danh Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta. 27 Vậy chúng ta đã sai Giu-đe và Si-la đến, để nói miệng với anh em về việc đó: 28 ấy là Đức Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài những điều cần dùng, 29 tức là anh em phải kiêng ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngột, và chớ tà dâm; ấy là mọi điều mà anh em khá kiêng giữ lấy vậy. Kính chúc bình an."

 

  Chúng ta ngưỡng mộ tinh thần của Hội đồng lần thứ nhất nầy, họ họp nhau để tìm cầu ý muốn Đức Chúa Trời, khi những sứ đồ làm chứng và dùng lời Chúa để ủng hộ cho lập trường của mình thì mọi người đều đồng ý, để quyết định của họ được lập thành văn bản, gởi đi khắp nơi, từ nay, sự mâu thuẩn nầy được xem như đã có lối giải quyết.

 

Hội đồng Giê-ru-sa-lem đã khôn ngoan cử hai thành viên trong cộng đồng của mình, là những Cơ Đốc nhân Do Thái cùng với Phao-lô và Ba-na-ba trở lại An-ti-ốt, nơi mà toàn bộ cuộc tranh cãi đã nổ ra.

 Họ mang bức thư nêu rõ quyết định của Hội đồng Jerusalem, rằng người ngoại bang không cần phải tuân thủ các nghi lễ của Do Thái giáo, tuy nhiên, để duy trì sự hiệp thông giữa các tín đồ Do Thái và người ngoại bang, người ngoại cần loại bỏ những thói quen mà Kinh Thánh không ủng hộ.

 

Bức thư này được viết riêng cho các hội thánh người ngoại bang tại Antioch, Syria và Cilicia:, nơi người Do Thái và người ngoại bang hòa nhập với nhau, tiềm ẩn nguy cơ căng thẳng và xung đột. Bức thư không được gửi đến tất cả các hội thánh người ngoại bang. Trong bức thư có viết rằng, chẳng phải đây là quyết định của con người, nhưng có sự hợp tác của Đức Thánh Linh,

" ấy là Đức Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài những điều cần dùng,"

 

Hội đồng đã mạnh dạn coi Chúa Thánh Linh là một trong số họ, một người bạn đồng hành tư vấn, người cùng hợp tác với họ trong việc công bố một kết luận chung; như thể Ngài, Thánh Linh của Chúa, đã ngồi cùng họ trong những cuộc thảo luận của họ.

Do đó, vấn đề đã được giải quyết ở đây, trong thời kỳ sơ khai của Cơ Đốc giáo, và cho mọi thời đại: Chúng ta được cứu bởi ân điển, qua đức tin nơi Chúa Giê-su Christ, chứ không phải bởi bất kỳ sự tuân thủ luật pháp nào, và sự vâng phục đó đến từ đức tin chân chính.

 

 

 



T́m hiểu thêm

 

Dân Ngoại là gì?


Nói một cách đơn giản, từ ngữ "dân ngoại" dùng để chỉ bất kỳ ai không phải là người Do Thái. Cựu Ước thường mô tả dân ngoại là những bộ tộc thờ phượng các thần khác. Từ "dân ngoại" trong tiếng Do Thái cũng có thể có nghĩa là "các dân tộc". Kinh Thánh thường mô tả những người này là thù địch với Israel.

Theo Kinh Thánh, khi nào Kinh Thánh sử dụng từ "dân ngoại", trong tiếng Do Thái, chúng ta thường thấy từ "goy" (goyim - số nhiều). Trong tiếng Hy Lạp, bạn sẽ thấy từ "ethne" hoặc "ethnos" - và vâng, đó chính là nguồn gốc của từ "ethnicity".

Vì vậy, "dân ngoại" có thể ám chỉ người nước ngoài nói chung, cũng như có thể ám chỉ các dân tộc - Tuy nhiên, thông thường chúng ta hiểu từ "dân ngoại" đơn giản là để chỉ một người không phải là người Do Thái.