Công vụ 15: "Tranh cãi dẫn đến Hội đồng ở Giê ru sa lem"

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

" hầu cho phước lành ban cho Áp-ra-ham nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà được rải khắp trên dân ngoại, lại hầu cho chúng ta cậy đức tin mà nhận lãnh Đức Thánh Linh đã hứa cho." Ga la ti 3: 14

Công vụ 15: "Tranh cãi dẫn đến Hội đồng ở Giê ru sa lem"

 

Đọc Công vụ 15: 1 - 12


Câu hỏi:

 

1/ Vì sao Hội Thánh An ti ốt phải gởi Phao lô, Banaba và các người Giu đa về Giê ru sa lem?
         Giải pháp đó có khôn ngoan không?

 

2/ Hội đồng đầu tiên của Cơ đốc nhân được mở ra vì lý do gì?
     Có ích lợi cho Hội Thánh không? hay để tranh cãi ở cáp bậc cao hơn?

 

3/ Phi e rơ bày tỏ ý mình ra sao? Ý của Phao lô và Ba na ba ra sao?
        Vì sao họ có quan điểm giống nhau?

 


"Tranh cãi dẫn đến Hội đồng ở Giê ru sa lem"

 

**" Tranh cãi giữa những Tín hữu Giu đa với Phao-lô và Ba-na-ba. Câu 1 - 4

 

" Vả, có mấy người từ xứ Giu-đê đến, dạy các anh em rằng: Nếu các ngươi chẳng chịu phép cắt bì theo lễ Môi-se, thì không thể được cứu rỗi. 2 Nhân đó, có sự khác ý và cuộc cãi lẽ dữ dội giữa Phao-lô và Ba-na-ba với mấy người đó, người ta nhất định Phao-lô và Ba-na-ba với mấy người trong bọn kia đi lên thành Giê-ru-sa-lem, đến cùng các sứ đồ và trưởng lão đặng hỏi về việc nầy. 3 Vậy, sau khi các người ấy được Hội thánh đưa đường rồi, thì trải qua xứ Phê-ni-xi và xứ Sa-ma-ri, thuật lại sự người ngoại trở về đạo, và như vậy làm cho anh em thay thảy được vui mừng lắm. 4 Vừa tới thành Giê-ru-sa-lem, được Hội thánh, các sứ đồ và trưởng lão tiếp rước, rồi thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã cậy mình làm."

 

*** Tranh cãi về cắt bì:

 

  Một số tín hữu từ Giê ru sa lem đến An ti ốt dạy anh em mới tin Chúa rằng:

“Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môi-se, thì anh em không thể được cứu.”

Những Cơ Đốc nhân Do Thái này đã truyền ra ý tưởng:

  Người ngoại bang có thể trở thành Cơ Đốc nhân, nhưng chỉ sau khi đã trở thành người Do Thái trước, và tuân theo mọi nghi lễ của người Do Thái, bao gồm cả phép cắt bì.


 Vì sự cố chấp, không hiểu biết, tín hữu Giu đa khó chấp nhận việc người ngoại bang có thể được đưa vào Hội thánh như những thành viên bình đẳng mà không cần phải trải qua Luật pháp Môi-se.


Họ cho rằng có trách nhiệm phải nói ra điều họ nghĩ là đúng, đòi hỏi người ngoại phải cắt bì mới được cứu vào chung Hội Thánh.
Qua sự giảng dạy của mình, số người Giu-đa đó đã đưa ra những đánh giá tiêu cực về mọi nỗ lực truyền giáo của Phao-lô và Ba-na-ba.

Cho rằng hai ông đã thành lập các Hội thánh giữa dân ngoại mà lại không đặt họ dưới Luật pháp Môi-se, cho rằng Phao-lô và Ba-na-ba đã sai lầm khi làm như vậy.

 Tuyên bố không theo luật Môi se thì không được cứu đã đi ngược lại cốt lõi của bài giảng của Phao lô rằng:

   Vì người ta không thể làm trọn luật pháp nên Chúa Giê su phải đem đến sự cứu rỗi theo cách của Đức Chúa Trời. Tin vào sự cứu chuộc thì được cứu.

   Đây là vấn đề gây bất đồng giữa các tín đồ, khi một số người cho rằng mình phải tuân theo luật pháp, còn một số khác lại cho rằng điều đó không quan trọng.

 Một vấn đề đụng chạm vào cốt lõi của Cơ Đốc giáo, và cần phải được giải quyết. Sa tan muốn dẫn các tín hữu đến một giáo lý sai lầm và châm mồi lữa cho một cuộc chiến tranh về giáo lý nghiêm trọng nhất trong sách Công vụ.

 

*** Sự phản bác của Phao lô và Ba na ba:

 

Sự khác ý nầy gây nên những bất đồng và tranh cãi không hề nhỏ trong Hội thánh: Phản ứng đầu tiên của hai ông là thuyết phục.

Chính hai sứ đồ, người đã từng chứng kiến ​​Đức Chúa Trời hành động mạnh mẽ qua dân ngoại, sẽ không dễ dàng từ bỏ ân điển ban cho người ngoại từ Chúa Giê su. Hai ông hiểu rõ rằng người ngoại được đi thẳng tới Đức Chúa Trời qua sự cứu chuộc của Chúa Giê su là không sai với ý định của Ngài.

 

Tranh cãi để bảo vệ chân lý là một điều mà tôi tớ Chúa cần cương quyết để dẹp bỏ những giáo lý sai lạc trong Hội Thánh.

 

** Tranh cãi dẫn đến Hội đồng cơ đốc đầu tiên ở Giê-ru-sa-lem:

 

Khi sự thuyết phục không giải quyết được vấn đề, Phao-lô và Ba-na-ba và các nguời Giu đa kia đã quyết định đến Giê-ru-sa-lem để nhờ các sứ đồ và trưởng lão giải quyết vấn đề nầy. Vì đó là cốt lõi của việc trở thành môn đồ của Chúa Giê-su nên phải bàn luận rõ ràng.
Câu nói: "được Hội thánh đưa đường" thiết nghĩ đây là quyết định khôn ngoan của toàn thể hội thánh tại An-ti-ốt, để mọi việc được giải quyết tại một Hội đồng cao nhất.

 

Trên đường về, các cơ đốc nhân khác được Phao lô và Ba na ba làm chứng công việc truyền giáo thì họ thật vui mừng, không như những người Giu đa đã gặp. Đến Giê ru sa lem, Phao lô và Ba na ba được các sứ đồ tiếp rước để nghe các công việc hai ông đã làm với dân ngoại.

 

*** Người Pha ri si theo Chúa có cùng một lập luận: câu 5

" Nhưng có mấy kẻ về đảng Pha-ri-si đã tin đạo, đứng dậy nói rằng phải làm phép cắt bì cho những người ngoại, và truyền họ phải tuân theo luật pháp Môi-se."

 Người chống đối Phao-lô và Ba-na-ba là những Cơ Đốc nhân từng là người Pha-ri-si. Người Pha-ri-si nổi tiếng là rất coi trọng luật pháp và mong muốn tuân thủ luật pháp đến từng chi tiết nhỏ nhất.


Nếu người Pha-ri-si tin điều gì, thì họ tin rằng người ta có thể được xưng công chính trước mặt Đức Chúa Trời bằng cách tuân giữ luật pháp. Để một người Pha-ri-si thực sự trở thành Cơ Đốc nhân, người đó phải từ bỏ nỗ lực xưng công chính bằng chính mình, để chấp nhận công việc của Chúa Giê-su làm nền tảng cho sự xưng công chính của mình.

Chúa Giê su tuyên bố, không có sự cứu rỗi nào khác ngoài Ta, thì người Pha ri si không thể chỉ thêm Chúa Giê-su vào rồi nói:


" Chúa Giê-su giúp tôi xưng công chính nhờ tôi tuân giữ luật pháp."

Hơn ai hết, bản thân Phao-lô trước đây là một người Pha-ri-si, ông hiểu rõ lợi thế của một người Pha ri si khi trở thành một cơ đốc nhân, vì người ấy được biết về luật pháp của Chúa, nhưng người ấy chỉ có thể chọn một con đường duy nhất cho sự cứu rỗi, nên Phao lô đã viết trong Ga la ti 2: 16

" Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ, nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp."

 

  Những người Pha-ri-si theo Chúa đã dạy cho dân ngoại hai điều:


Thứ nhất, những người ngoại bang cải đạo phải được xác nhận vào Do Thái giáo thông qua phép cắt bì.

Thứ hai, họ phải sống theo luật Môi-se nếu họ muốn được Chúa chấp nhận và được cộng đồng Cơ Đốc đón nhận.


Người Pha ri si có suy nghĩ rằng Y-sơ-ra-ên luôn là dân được Chúa chọn, và nếu người ngoại bang muốn trở thành một phần của Y-sơ-ra-ên, thì họ phải làm những điều giống dân Y sơ ra ên đã làm.

Có lẽ, người Pha ri si đã lấy một câu nói trong Ê sai: 56: 6 & 7 để nói rằng người ngoại được công nhận khi vào giao ước cắt bì của Do Thái.

" Các người dân ngoại về cùng Đức Giê-hô-va, đặng hầu việc Ngài, đặng yêu mến danh Đức Giê-hô-va, đặng làm tôi tớ Ngài; tức là hết thảy những kẻ giữ ngày Sa-bát cho khỏi làm ô uế, và cầm vững lời giao ước ta, 7 thì ta sẽ đem họ lên trên núi thánh ta, làm cho họ vui mừng trong nhà cầu nguyện ta. Của lễ thiêu và hi sinh họ dâng trên bàn thờ ta, sẽ được nhận lấy; vì nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc."

Lời giao ước nói ở trên không ám chỉ đến Giao ước cắt bì.

 

*** Hội đồng bàn thảo - Phi e rơ lên tiếng: câu 6-11

 

"Các sứ đồ và các trưởng lão bèn họp lại để xem xét về việc đó. 7 Sau một cuộc bàn luận dài rồi, Phi-e-rơ đứng dậy nói cùng chúng rằng: Hỡi anh em, hãy biết rằng từ lúc ban đầu, Đức Chúa Trời đã chọn tôi trong các anh em, để cho người ngoại được nghe Tin Lành bởi miệng tôi và tin theo. 8 Đức Chúa Trời là Đấng biết lòng người, đã làm chứng cho người ngoại, mà ban Đức Thánh Linh cho họ cũng như cho chúng ta; 9 Ngài chẳng phân biệt chúng ta với người ngoại đâu, vì đã lấy đức tin khiến cho lòng họ tinh sạch. 10 Vậy bây giờ, cớ sao anh em thử Đức Chúa Trời, gán cho môn đồ một cái ách mà tổ phụ chúng ta hoặc chính chúng ta cũng chưa từng mang nổi? 11 Trái lại, chúng ta tin rằng nhờ ơn Đức Chúa Jêsus, chúng ta được cứu cũng như người ngoại vậy."

 

Sau khi nghe Phao lô phân tích mọi việc, bấy giờ, các sứ đồ và trưởng lão, tức là những bậc đứng đầu trong Hội Thánh trung ương họp lại để xem xét vấn đề.

Câu hỏi do hội đồng Giê-ru-sa-lem đặt ra rất lớn:


Liệu Cơ Đốc nhân được xưng công chính trước mặt Đức Chúa Trời chỉ bởi đức tin, hay bởi sự kết hợp giữa đức tin và việc vâng giữ Luật pháp Môi-se? Liệu công việc của Chúa Giê-su có đủ để cứu rỗi người tin cậy nơi Ngài, hay chúng ta phải thêm công việc của mình vào công việc của Chúa Giê-su để được xưng công chính trước mặt Đức Chúa Trời?



  Việc công khai đưa vấn đề nan giải trong Hội Thánh ra như thế nầy được xem là một thử thách về giáo lý. Đó là một cách làm việc đáng tôn trọng, Đức Thánh Linh đã hướng dẫn nhiều điều trong Hội Thánh. Việc mọi người ngồi lại cùng nhau, bàn luận về Lẽ đạo, dưới sự dẫn dắt của Chúa, luôn là một mô hình tốt nhất, giải toả những mâu thuẩn, hiểu lầm.

Giữa lúc này, Phi-e-rơ, với tư cách là một trong những sứ đồ hàng đầu, được Đức Thánh Linh cảm hoá, đã đứng lên bày tỏ quan điểm của mình, xuyên qua chính kinh nghiệm mà ông được biết khi Chúa Kêu gọi ông đến với Cọt nây.

 

Phi-e-rơ bắt đầu bằng lời làm chứng, thuật lại công việc Đức Chúa Trời đã làm. Sau đó, ông nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời đã hoàn toàn tiếp nhận dân ngoại mà không cần phải cắt bì. Nếu Đức Chúa Trời đã thừa nhận những người ngoại này, thì tại sao Hội thánh lại không thể? Nếu Đức Chúa Trời tiếp nhận họ, thì hội thánh cũng nên tiếp nhận!


Phi-e-rơ đã đưa ra một nhận xét quan trọng  về người ngoại là “Ngài không phân biệt chúng ta với họ”.

Một ý nghĩ xuất phát trực tiếp từ khải tượng cho ông về loài vật thanh sạch và loài vật ô uế. Phi e rơ bày tỏ nguyên tắc rằng, Đức Chúa Trời không muốn ông coi người ngoại là ô uế và tầm thường. Họ được thanh tẩy lòng họ bằng đức tin và điều nầy được Chúa chấp nhận.


Cơ đốc nhân không cần phải được thanh tẩy bằng cách tuân giữ các nghi lễ trong Luật pháp Môi-se.

 *** Cơ Đốc nhân không chỉ được cứu bởi đức tin; họ còn được thanh tẩy bởi đức tin.

Phi e rơ đã dẫn chứng rằng, tổ phụ Y sơ ra ên đã không gánh vác nỗi luật pháp. Nếu người Pha-ri-si xem xét cẩn thận và trung thực sự thất bại của Y-sơ-ra-ên dưới luật pháp, thì họ không nên vội vàng đặt cả dân ngoại dưới gánh nặng của luật pháp lần nữa.

 

Phao lô viết trong Ga la ti 3: 24 - 26:

" Ấy vậy, luật pháp đã như thầy giáo đặng dẫn chúng ta đến Đấng Christ, hầu cho chúng ta bởi đức tin mà được xưng công bình. 25 Song khi đức tin đã đến, chúng ta không còn phục dưới thầy giáo ấy nữa. 26 Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Jêsus Christ, nên hết thảy đều là con trai của Đức Chúa Trời."

 

  Phi-e-rơ kết luận với nhận định rằng: Chính nhờ ân điển mà tất cả mọi người đều được cứu - cả người Do Thái lẫn người Ngoại, chứ không phải nhờ vâng giữ luật pháp.

 Tuy Phi-e-rơ cũng là người Giu đa, nhưng ông được Đức Thánh Linh soi dẫn, ông đã bỏ thành kiến của một người Do Thái, để nói lên chân lý rằng:

                Tất cả đều được cứu chỉ bởi ân điển qua đức tin, cả người Ngoại và người Do Thái.

 

*** Lời làm chứng của Phao lô và Ba na ba câu 12

" Cả hội đồng đều lẳng lặng, nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những phép lạ dấu kỳ mà Đức Chúa Trời đã cậy mình làm ra giữa người ngoại."

 

  Dù có sự chống đối ban đầu, nhưng sau đó, mọi người đều im lặng, lắng nghe Phao lô và Ba na ba làm chứng:

 Điều này cho thấy mặc dù có nhiều tranh luận, nhưng tất cả những tín đồ đều có lòng ngay thẳng. Họ sẵn sàng lắng nghe và chịu thuyết phục nếu thấy sai.
Ba-na-ba và Phao-lô đã xác nhận quan điểm trước đó của Phi-e-rơ, khi ông nói đến việc Đức Thánh Linh dắt dẫn để làm chứng cho người ngoại
Về cơ bản, cả ba sứ đồ đều nói nói:

“Đức Chúa Trời đã chấp nhận dân ngoại, lẽ nào chúng ta lại không nên làm như vậy ?”

  Làm chứng về những gì mà Đức Chúa Trời làm, là cách dễ thuyết phục nhất, ai muốn cãi với ý muốn của Ngài?

          Sự thuận phục vì ý muốn của Cha là đúng đắn nhất.