CV 13"Chuyến Truyền giáo đầu tiên của Phao Lô và Ba na ba"

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

"Cũng hãy cầu nguyện cho chúng tôi, xin Đức Chúa Trời mở cửa cho sự giảng đạo, hầu cho tôi được rao truyền lẽ mầu nhiệm của Đấng Christ, vì lẽ đó mà tôi bị xiềng xích," Cô lô se: 4: 3

Công vụ 13: "Chuyến Truyền giáo đầu tiên của Phao Lô và Ba na ba"

 

Đọc Công vụ 13: 4 - 11

 

Câu hỏi:

 

1/ Phao lô và Ba na ba đã khởi hành từ đâu và đi dến đâu trong đoạn nầy?
Ai là người trợ lý? Người trợ lý nầy có gì đặc biệt?

 

2/ Đoàn truyền giáo lợi dụng cơ hội nào để có thể rao truyền Tin lành cho người Giu đa ở trong lãnh thổ La mã?
Họ có gặp trở ngại không?

 

3/ Đức Chúa Trời có thấy được quan Tổng đốc muốn nghe Tin lành không? Ngài ban điều gì cho ông?
Còn ma quỷ thì làm gì để ngăn trở?

 

"Chuyến Truyền giáo đầu tiên của Phao Lô"

 

*** Truyền giáo tại các thành phố Seleucia, Salamis và Paphos.

 

" Vậy, Sau-lơ và Ba-na-ba đã chịu Đức Thánh Linh sai đi, bèn xuống thành Sê-lơ-xi, rồi từ đó đi thuyền đến đảo Chíp-rơ. 5 Đến thành Sa-la-min, hai người giảng đạo Đức Chúa Trời trong các nhà hội của người Giu-đa; cũng có Giăng cùng đi để giúp cho. 6 Trải qua cả đảo cho đến thành Ba-phô rồi, gặp một người Giu-đa kia, là tay thuật sĩ và tiên tri giả, tên là Ba-Giê-su, 7 vốn ở với quan trấn thủ tên là Sê-giúp Phau-lút là người khôn ngoan. Người nầy đã sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, và xin nghe đạo Đức Chúa Trời."

 

*** Sau lơ và Ba na ba được Đức Thánh Linh sai đi:

 

Bất cứ Hội Thánh nào cũng có thể sai người đi ra, nhưng khi Đức Thánh Linh sai đi, Ngài có công tác đặt biệt cho người ấy. Chuyến đi nầy được đánh dấu là chuyến truyền giáo đầu tiên của Phao lô và Ba na ba vào khoảng năm 46 sau Công nguyên.

Đi xuống Seleucia: ( Sê lơ xi)

Chúng ta không được biết công việc cụ thể nào đã diễn ra tại Seleucia, một thành phố gần Antioch. Sau-lơ và Ba-na-ba có thể đã đến đó chỉ vì đó là thành phố cảng gần Antioch, Kinh thánh không nói họ làm gì ở đó. Nhìn trên bản đồ, có thể thấy Seleucia không xa Antioch, Hội thánh Antioch đang phát triển mạnh mẽ, nên không khó để cho rằng đã có một nhóm tín đồ Đấng Christ ở trong thành phố đó rồi nên có lẽ Seleucia chỉ là nơi dừng chân để đón thuyền ra đảo Chíp rơ (Cyprus)

***Salamis và Paphos.

   nằm trên đảo Chíp rơ. Trong Công vụ 4: 36 nói rằng, Ba-na-ba, thuộc dòng Lê-vi, quê hương tại Chíp-rơ. Khi đến Salamis, Phao lô và Ba na ba vào các nhà hội của Do Thái để rao giảng.

  Ngày xưa, các nhà Hội có phong tục mở cửa hội đường, mời gọi bất kỳ người thông thái nào đến nói chuyện với những người trong Hội đường, tại buổi họp ngày Sa-bát. Do đó, truyền thống nầy đã mang lại cơ hội cho Ba-na-ba và Sau-lơ đến truyền giảng. Salamis là một cảng biển và trung tâm thương mại quan trọng với cộng đồng Do Thái đông đảo.

 

Họ cũng có Mác (còn gọi là Giăng Mác) làm trợ lý đi chung trong chuyến nầy, là người bạn đồng hành quý báu của Ba-na-ba và Phao lô.
Trong sách Cô lô se 4: 10 có nói, Mác là anh em chú bác với Ba-na-ba. Mác là tác giả sách Mác, một trong bốn sách Tin lành, Mác lớn lên ở Giê-ru-sa-lem, ông chứng kiến ​​nhiều sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giê-su, nên Mác có thể kể lại một cách rành mạch cho Ba-na-ba và Sau-lơ nghe những chuyện về Chúa Giê su, Mác cũng làm một nhân chứng sống về Chúa Giê su, cho những người mà họ đang rao giảng.

Ở Salamis không nghe nói đoàn truyền giáo gặp trở ngại, từ đó họ đi khắp đảo, rồi băng qua phái tây của đảo Chíp rơ là Paphos:


Thành phố Paphos nằm ở bờ biển phía tây đảo Síp này nổi tiếng với sự vô luân. Tại đây, Barnabas và Phao lô phải đối mặt với sự kết hợp giữa sự vô luân và bóng tối tâm linh vốn phổ biến trong thế giới ngoại giáo của Đế chế La Mã.

Paphos khét tiếng vì thờ thần Venus, nữ thần của tình yêu hay nói đúng hơn là tình dục. Các sử gia gọi tôn giáo của thành phố này là ‘thần thánh hóa dục vọng" Cả đàn ông lẫn đàn bà đều không thể đến đền thờ thần Venus mà không bị ô uế về tâm trí và sa đọa về tính cách.

Tại Paphos, Kinh thánh giới thiệu cho chúng ta hai người khác biệt, một người là Quan tổng đốc La mã, Sergius Paulus ( Sê-giúp Phau-lút) và người kia là người Giu đa tên Elymas ( Ê ly ma) Cả hai đều phản ứng với Tin lành theo hai chiều hướng khác.

***Quan tổng đốc La mã, Sergius Paulus:

Đây là một người quan trọng. Tổng đốc La Mã chịu trách nhiệm cho toàn bộ một tỉnh và chịu trách nhiệm trước Viện Nguyên lão La Mã.
Tất cả các tỉnh của La Mã được chia thành hai loại: những tỉnh cần quân đội, do hoàng đế quản lý, và những tỉnh không cần quân đội sẽ do Viện Nguyên lão và các quan Tổng đốc cai quản.


Câu chuyện ở đây cho thấy quan Tổng đốc Sergius Paulus là người khôn ngoan, muốn nghe đạo Tin lành, nhưng Elymas tên Giu đa kia lại là Tiên tri giả, cố ngăn quan Tổng đốc không cho tiếp cận với Tin lành bởi Phao lô và Ba na ba.

*** Quan Trấn thủ tin nhận Chúa: câu 8 -12

" Nhưng Ê-ly-ma, tức là thuật sĩ (ấy là ý-nghĩa tên người), ngăn hai người đó, ráng sức tìm phương làm cho quan trấn thủ không tin. 9 Bấy giờ, Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, đầy dẫy Đức Thánh Linh, đối mặt nhìn người nói rằng: 10 Hỡi người đầy mọi thứ gian trá và hung ác, con của ma quỉ, thù nghịch cùng cả sự công bình, ngươi cứ làm hư đường thẳng của Chúa không thôi sao? 11 Nầy, bây giờ tay Chúa giá trên ngươi; ngươi sẽ bị mù, không thấy mặt trời trong ít lâu. Chính lúc đó, có sự mù mịt tối tăm phủ trên người, người xây quanh bốn phía, tìm kẻ để dắt mình. 12 Quan trấn thủ thấy sự đã xảy đến, bèn tin, lấy làm lạ về đạo Chúa. "

Trong khi đang thi hành chức vụ tại Pa-phô, có lẽ Phao lô và Ba na ba cũng theo cách lúc trước, là vào các nhà hội để giới thiệu Chúa Giê-su, một cánh cửa bất ngờ đã mở ra, quan Tổng đốc muốn nghe lời Chúa nên mời họ đến, với sự khiêm nhường, ông xin được nghe đạo Đức Chúa Trời.


*** Ê-ly-ma, thầy phù thủy:

Ở câu 6, có nói Ê ly ma là người Giu đa, tên thật của ông ta là Ba-Giê-su, nghĩa là “con trai của Chúa Giê-su”, tác giả Lu-ca không thể chịu đựng được việc gọi tên ông ta như vậy, nên dùng tên ngoại quốc nầy để gọi ông ta.

Vào thời đó, người ta thường có những cái tên vừa giống nhau vừa khác nhau, tùy theo ngôn ngữ hoặc văn hóa của họ.

 Phao lô cũng vậy, Sau-lơ (Saul), là tên Do Thái được đặt theo tên vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên. Nhưng tên La Mã của ông là Paul – có nghĩa là “Nhỏ” và phát âm tương tự như “Saul”.
Phao lô được sinh trong lãnh thổ La mã nên có quốc tịch La mã và có tên theo tiếng La tinh là Paul.

Ê-ly-ma, thầy phù thuỷ này đang làm cố vấn cho quan tổng đốc, hắn đã cố gắng ngăn cản nỗ lực truyền giáo của Ba-na-ba và Phao lô. Chúng ta không ngạc nhiên trước sự chống đối. Bất cứ nơi nào có khả năng thành công lớn nhờ có cửa mở, thì cũng có những kẻ thù nghịch.

 

Khi Ê ly ma ngăn trở Tin lành đến với quan Tổng đốc thì Phao lô được đầy dẫy Thánh Linh mà quở trách Ê ly ma rằng:

" Hỡi người đầy mọi thứ gian trá và hung ác, con của ma quỉ, thù nghịch cùng cả sự công bình.."

 Đức Thánh Linh chỉ cho Phao lô thấy những gì bên trong con người nầy, Ngài quở người nầy đang làm hư sự công chính của Đức Chúa Trời và khiến cho ông ta bị mù trong một thời gian.


  Ê-ly-ma bị mù, chắc Phao-lô cũng sẽ nhớ lại kinh nghiệm của chính mình khi đối diện với Chúa Giê su, khi cải đạo trên đường đến Đa-mách (Công vụ 9:9). Chắc chắn, những ai chống đối Đức Chúa Trời đều mù về mặt thuộc linh, nên Đức Chúa Trời đã khiến cho Ê-ly-ma một sự mù lòa về thể xác tương ứng với sự mù lòa về mặt thuộc linh, cho đến chừng ông ta biết hối cãi.

Quan Trấn thủ có lẽ đã bị tên Ê ly ma nầy lung lạc, làm cho hoang mang, nhưng khi thấy ông ta bị mù bởi sự quở trách của Phao lô thì quan Trấn thủ liền tin.

 Sau nầy, người ta tìm thấy bia đá khắc tên Sergius Paulus, và các sử gia còn có những dữ liệu cho rằng quan Tổng đốc và cả nhà ông đều theo đạo Chúa.


Phép lạ làm cho Ê-ly-ma đột nhiên bị mù đã là điều kỳ diệu, nhưng tin mừng mà quan tổng đốc nghe được từ Phao-lô còn kỳ diệu hơn. Người ta nói rằng điều làm cho quan Tổng đốc tin Chúa là do lời dạy của Chúa hơn là phép lạ làm mù mắt Ê ly ma mà ông từng chứng kiến.

Chuyến đi của Phao lô và Ba na ba vẫn còn tiếp tục. Phao-lô đã thực hiện bốn chuyến hành trình truyền giáo chính, kéo dài khoảng 14 năm, đi hơn 10.000 dặm qua phía đông Địa Trung Hải và một số vùng ở châu Âu để thành lập các cộng đồng Cơ Đốc giáo.

Độ dài của mỗi chuyến hành trình và thời gian ở lại các điểm đến khác nhau là khác nhau, chuyến đầu tiên kéo dài khoảng một năm, chuyến thứ hai khoảng ba năm, và chuyến thứ ba kéo dài năm hoặc sáu năm, trong khi chuyến đi cuối cùng của ông đến Rome mất khoảng sáu tháng.